728x90 Banner

Tin mới
Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

[Sách] Phong thổ Mão Điền (Chương 3 - Phần 4)


CHƯƠNG 3: MỘT LÀNG CỔ ĐIỂN  HÌNH

(Phần 4)
Nhằm ràng buc tt ccác thành viên trong làng theo mt khuôn kh, kcương, người ta đặt ra hương ước.Đỗ đại khoa được biếu một thủ lợn
Hương ước Mão Điền lập ngày 19 tháng Tám năm Tự Đức thứ 35 (1881). Sau đó được bổ xung vào các năm Duy Tân 6 (1912), Bảo Đại 10 (1935). Hương ước gồm 31 điều. Trong nguyên bản, các điều không được đánh số thứ tự mà ở đầu chỉ ghi Nhất điều. Hết một điều ghi Vi lệ hoặc Tư giao. Hương ước không sắp xếp theo loại mục vấn đề, thường là bàn đến đâu ghi đến đó. Chữ viết cũng không phải một người. Nói chung là lộn xộn, thiếu khoa học.
Những quy chế ghi trong Hương ước có mấy điểm đáng chú ý sau đây :
1   – Triều đình lấy chức tước làm trọng. Làng xóm lấy tuổi tác làm trọng. Vì vậy khi làng có việc thì ai hơn tuổi ngồi trên, không được lộn xộn.
2   – Những người 50 tuổi trở lên cứ 5 năm một lần thăng lão, phải biện một số tiền làm lễ thần sau đó đãi cả làng từ 18 trở lên. Riêng các cụ ngoài 70 tuổi trở lên được miễn, không phải đóng góp.
3   – Người bản xã vọng quan viên, tên tuổi được ghi vào sổ làng, phải nộp 10 quan tiền và 30 quả cau đẹp. Vọng quan viên rồi mới được ra đình dự lễ.
4   – Hằng năm vào dịp Nhật tịch (tháng Hai và tháng Tám) những người được cỗ biếu :
   70 tuổi trở lên được biếu mỗi người một cỗ
   Đỗ đại khoa được biếu một thủ lợn
   Đỗ tú tài, xuất đội, chánh quản mỗi người được biếu một cân thịt lăm.
   Cai phó tổng, chánh phó lý mãn lệ một cỗ / người.
   Người giữ đồ thần : hai cỗ.
5   – Những người trúng cử lý trưởng, phó lý phải trình diện làng 20 quan tiền.
Lý phó trưởng được thu thóc bảo vệ đồng điền, nhưng nếu bất cẩn làm mất hoa mầu phải bồi thường dân. Số thóc thu được phải trích mỗi năm 8 tháng nộp cho làng chi dụng.
6   – Lý, phó trưởng vì lý do gì đó không làm việc đủ kỳ hạn thì mỗi năm còn thiếu nộp 15 đồng xung công. Nếu không nộp, không được hưởng chế độ ưu đãi.
7   – Con gái hoặc con gái nuôi lấy chồng phải nộp cheo . Lấy chồng làng nộp 10 đồng. Lấy chống khác làng nộp một đôi mâm đồng nặng 7 cân và 30 quả cau.
8   – Người nơi khác táng mộ trên địa phận xã, phải trình báo lý trưởng và biện lễ : Tiền 5 quan, gà 1 con, xôi 1 mâm và trầu rượu.
Nếu không nộp, lý dịch chịu trách nhiệm bồi thường.
9 – Khi có thông sức lấy lính, lý trưởng cùng cả làng hội bàn thỏa thuận, quyết định đích danh. Nếu tên ấy mưu lấy kẻ khác thay
thế thì làng không chấp nhận, cùng kêu quan trên, cứ tên ấy phải vào binh ngạch. Đi lại phí tổn bao nhiêu dân làng cùng chịu.
10 – Mỗi người đi lính được ấy 4 mẫu 5 xào ruộng. Nếu may mắn được hoãn thì mỗi tháng nộp trả làng 4 thúng thóc tẻ (khoảng 50 kg) làm của công. Nếu đi lính chưa đủ niên hạn hoặc trốn mất tích thì cứ truy vào thân nhân, thu mỗi tháng 4 thung, trả cho người đi lính kế tiếp.
11 – Trong xã có việc xảy ra để cấp trên về điều tra, đối thúc, bắt lý dịch khai báo căn cước thì phí tổn bao nhiêu người gây ra (hoặc thân nhân) phải chịu.
12– Người nào thiếu sưu thuế sẽ bị xóa tên trong sổ làng, cho làm dân ngoại tịch. Phí tổn bao nhiêu cả làng chịu.
Ở Mão Điền còn những tập tục và kiêng kị không thành văn bản nhưng lại được dân chúng tuân thủ nghiêm túc từ đời này qua đời khác. Có thể đơn cử :
   Tục đóng bốn : Tức là mỗi mâm cỗ chỉ có bốn người ăn. Theo giải thích của địa phương, ngồi như thế là vuông (chuông), là lịch sự, đúng phong cách cổ nhân “Bốn cụ ngồi một cỗ, cụ đủ điều, cụ chẳng sợ ai”. Cho đến nay tục này vẫn không thay đổi.
   Tục trả giầu (trầu) : Người con gái bị ép, đã hứa hôn, nhận trầu cau của nhà trai, vẫn có thể hủy bỏ sự ràng buộc ấy. Họ đem đến trả nhà trai một số tiền xấp xỉ tiền ăn hỏi gọi là trả giầu. Hành động này coi như lời tuyên bố chấm dứt quan hệt đôi bên :Tủi hồng hận cốm bao năm/ Trầu cau đem trả, môi ăn chẳng hồng (Trả giầu – Thơ Nguyễn Phan Hách). Nhờ tục lệ này mà các cô gái có một khoảng tự do nhất định trong hôn nhân. Họ có quyền lựa chọn bạn trăm năm, không hoàn toàn phụ thuộc vào “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
   Tục cất ngôi trừ ngoại : Người bị cất ngôi trừ ngoại sẽ bị mất hết tư cách thành viên, không có quyền lợi chính trị, kinh tế, văn  hóa trong cộng đồng. Thậm chí còn không được công nhận quan hệt ruột già thân thích, kể cả khi sống lẫn khi chết. Đây là hình phạt cao nhất cho một tập thể gia đình, dòng họ hay làng xóm đối với cá nhân, khi cá nhân này phạm tội lỗi nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến thanh danh gia tộc, làng xóm. Tất nhiên tục này chỉ là hình thức răn đe, rất ít khi được sử dụng.
   Kiêng phạm phòng :  Đã có trường hợp chú rể do lo liệu, cưới xin vất vả, căng thằng, đêm động phòng hưng phấn quá mức, bị chết “bất đắc kỳ tử”, gọi là phạm phòng. Cho nên ở Mão Điền trước đây đêm đầu cô dâu thường giữ bạn gái ( phù dâu) ngủ chung mà không ngủ với chồng. Đây là biện pháp phòng ngừa điều bất hạnh trên một cách hiệu quả, không phải dùng đến thủ pháp châm huyệt của y học mà phần lớn các cô gái mới lớn, vì e thẹn xấu hổ không dám thực hiện. 
   Kiêng gọi nhát gừng : Khi gọi nhau, sau tiếng ơi phải gọi tiếp bằng tiếng ởi : “ Hà ơi, Hà ởi”. Kiêng gọi nhát gừng , dóng một, đứt quãng … vì đó là tiếng gọi của…ma.
   Kiêng trồng cây cổ thụ trước nhà : Vì cây cao to là nơi ẩn nấp của ma quỷ, dễ bị Thiên lôi (sét) đánh.
   Kiêng đặt hoành nhà ngược chiều: Hoành nhà còn gọi là đòn tay phải xếp tre (gỗ) sao cho ngọn cùng hướng với ngọn, gốc cùng chiều với gốc. Ngụ ý tránh sự tráo trở, quay quắt. Đây cũng là một trong những phép phản chủ của thợ mộc xưa.
Ngoài ra còn : Kiêng tắt lửa ngày Tết Nguyên đán, kiêng ra ngõ gặp gái, kiêng dựng các dụng cụ làm đất như mai , cuốc , xẻng trước cửa; kiêng thịt chó đầu tháng v.v… kể không hết. 



Phần tiếp theo Chương 3: Một làng cổ điển hình -Phần 5
Bản mềm do người chuyển bản điện tử cung cấp.
Đề nghị không sao chép dưới mọi hình thức!

  • Bình luận Blog
  • Bình luận Facebook

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Item Reviewed: [Sách] Phong thổ Mão Điền (Chương 3 - Phần 4) Rating: 5 Reviewed By: Unknown